Thứ Hai, 27 tháng 12, 2010

Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm...



Năm cùng tháng tận...
Vài ngày nữa thôi là khép lại một năm đầy rẫy những khó khăn...
Chao ôi, thời gian quả là đáng sợ...
Chớp mắt một chốc đã một năm qua đi... Nhắm mắt lại đã thấy Cha mẹ già nua... Mở mắt ra lại đã thấy mình khôn lớn...
Biết bao nhiêu trăn trở cho một cuộc sống khó khăn... "Cuộc sống" - sao hai tiếng ấy cứ mãi xoay vần trong mỗi phận người có chăng bởi lẽ đó là nơi con người được đặt vào đó để tồn tại...
Một năm đã qua đi... Cha mẹ thêm một tuổi đời... Ta thêm một tuổi khôn lớn...
Cha mẹ già đi, như "chuối chín cây"... Ta thêm tuổi lớn, chắc gì đã khôn... Mãi chỉ thấy mình là vụng dại...vì ai trong chúng ta cũng đang đi trên con đường dần trưởng thành...
Hôm nay khôn hơn ngày hôm qua...Ngày mai bớt dại hơn hôm nay...
Chẳng mấy chốc mà đi hết chặng đường đời...để rồi mãi vẫn thấy mình trẻ dại...
Ừh, vẫn biết phải sống giây phút thực tại... là yêu và trân trọng những gì mình đang có...
Nhưng sao nhìn lại thấy quạnh hiu quá...
Rồi một ngày tỉnh dậy, thấy bên đời chẳng còn ai... Tất cả chỉ là những nhung nhớ và trong ký ức... Những "hồi xưa", những "ngày đó" ...tất cả chỉ hiện về với tiếng "giá như"...
Ta sống hết mình với người, mà quên những người cả đời vì ta...
Ta đau khổ với người dưng, mà quên những người đau khổ vì ta sớm tối...
Ta khóc với người dưng, mà quên giọt nước mắt cho những yêu thương mãi mãi dành cho ta...
Ta làm mọi điều cho người ta yêu quý, mà quên làm những điều đơn giản nhất với người luôn làm mọi điều vì ta...
....
Cuộc sống có phải là tệ bạc?!? Có phải là những vòng luẩn quẩn...
Cha mẹ yêu thương ta, để ta đi yêu thương người...
Vậy thì cuộc sống cũng bạc lắm...
Nhưng nước mắt có khi nào chảy ngược? Mãi mãi là như thế...
Khi ta nhận ra liệu chăng đã là quá muộn?!?
Có những đêm dài như đêm nay! Lúc ốm đau, nằm một chỗ, nhắm mắt lại mới thấy những nghẹn ngào...
Nghĩ tới những lúc ốm đau như thế, ta chẳng còn Mẹ để chờ một bát cháo nóng với những lo âu...
Nghĩ tới những lúc tỉnh dậy không còn nghe tiếng Mẹ gọi mỗi sáng...
Nghĩ tới những lúc không còn nghe tiếng ho hắng quen thuộc của Bố...không còn tiếng bước chân quen thuộc bao nhiêu năm đi về trên con ngõ nhỏ từ đằng xa...
Sao lúc này, ta chỉ nghĩ được tới những lúc không còn ai bên mình nữa...
Sao lúc này, ta chỉ có duy nhất cảm giác trống rỗng và cô đơn...
Ta lại chỉ mong ngày mai mình thật khỏe, thật nhiều những ý tưởng, những công việc để làm và để được sống hết mình ta...với Bố Mẹ...
Lại chỉ mong mỗi ngày đi làm về, thấy Bố Mẹ chờ ta với những bữa cơm đạm bạc như bao nhiêu năm xưa vẫn thế...
Lại nhận ra mình đã bỏ lỡ biết bao bữa cơm như thế trong đời vì những vui thú bên ngoài...
Ta may mắn, vì tới từng này tuổi chưa phải sống xa gia đình...Có lẽ vậy nên ta yếu đuối...
Nghĩ mà thương những người con xa nhà...Sống với Bố Mẹ là bao năm...rồi ra đời tung cánh...
Sóng gió...
Giông bão...
Ai đỡ nâng?!?
Thấy mình đang hạnh phúc quá...
Tự nhủ với lòng mình rằng, sẽ không để thời gian trôi qua là vô nghĩa...sẽ gắng sống đẹp lòng Bố Mẹ...
Ta sợ nghĩ tới một ngày tỉnh dậy không còn ai...Có thể là lo sợ thừa thãi, khi ngày mai ta vẫn sống như cũ...
Nỗi lo sợ như nhắc nhở ta rằng...Thêm một ngày trôi qua, là thời gian còn sống trên cõi đời này ngắn lại...
Một ngày sống đó, ta đã sống trọn vẹn với thực tại hay chưa?
Một ngày sống đó, ta đã làm được gì cho mình, và cho Bố Mẹ?
Một ngày sống đó, ta đã làm được gì cho tha nhân?

"Đời vẽ tôi trong cuộc tình
Đầy những yêu thương giận hờn
Từ đó sớm chiều bâng khuâng
Đời vẽ tôi tên tuyệt vọng
Vì lỡ nơi đây nặng tình
Từ đó tôi chìm dưới mênh mông...."
(Trịnh Công Sơn)

Lạy Chúa,
Con biết rằng, từng suy nghĩ của con lúc này do Chúa tác động lên con...Người đã cho con nhận ra và trân trọng những giá trị và giây phút thực tại...
Nơi cuộc sống của con, tương quan và những con người...còn quá nhiều những đau khổ, những giả dối và bon chen...
Danh tiếng, sự nổi trội, sự ca ngợi chỉ là hình thức và giả tạo... Tạ ơn Chúa đã cho con cảm nhận đủ, và để con nhận thấy rằng, cuộc sống này của con, chỉ cần đẹp lòng Chúa, và Cha Mẹ mình...
Tất cả chỉ là hư vô...
Con sợ một ngày con gục ngã bởi những yếu đuối... Nếu có gục ngã, xin Người hãy luôn ở bên con, hãy cho con thêm sức mạnh để con vững bước...
Vì con biết tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ thay đổi...và con chỉ biết cậy trông nơi Ngài...
Xin hãy nhắc nhở con những lúc con mê mải cuốn theo những phù hoa thế gian mà quên đi mục đích sống của con... Xin hãy nhắc nhở con luôn nhớ tới nơi con được sinh ra và được nuôi dưỡng... Xin hãy nhắc nhở con luôn biết khơi dậy trong mình những tình cảm tốt đẹp với con người...những hiện thân của Chúa trên cuộc đời này... Xin hãy nhắc nhở con mãi nhớ rằng...chỉ có Chúa là Đấng Tín Trung...
Xin cho con biết sống, trân trọng và yêu giây phút thực tại...từng ngày, trong từng hơi thở...
Amen!

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

NGÔN NGỮ CỦA THINH LẶNG




Truyện kể rằng:

Trước khi ông Moisê dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, người phải qua một thời gian huấn luyện dưới sự chỉ giáo của một thầy dạy. Kỷ luật đầu tiên mà Moisê phải tuân giữ, là sự im lặng tuyệt đối trước bất cứ điều trái ý nào.

Một hôm, hai thầy trò đi du ngoạn tại một miền quê có đồi núi hùng vĩ, cây cối xanh tươi, hoa cỏ muôn màu muôn sắc, sông nước trong mát. Nhưng Moisê cũng phải im lặng không dám mở miệng khen ngợi.

Ðến gần bờ sông, Moisê thấy một đứa bé đang chìm dần xuống nước, trong khi đó người mẹ trên bờ sông không biết làm gì hơn là khóc than thảm thiết.

Moisê không cầm lòng được trước cảnh tượng đáng thương đó, liền buột miệng nói:

Thầy không thể làm gì để cứu đứa bé được chăng?

Thầy giáo bảo Moisê hãy giữ im lặng.

Moisê cắn lưỡi giữ yên lặng, nhưng cảm thấy áy náy trong tâm hồn. Ông tự nghĩ, không lẽ thầy mình lại có tấm lòng chai đá như vậy hay sao? Hay là chỉ vì bất lực không thể cứu giúp người gặp cảnh khó khăn được? Mặc dù Moisê không dám nuôi những tư tưởng xấu về thầy mình, nhưng lại rất khó mà xua đuổi những tư tưởng ấy đi.

Hai thầy trò lặng lẽ tiếp tục tiến về phía biển. Ðứng trên bờ biển, Moisê thấy chiếc thuyền nhỏ lao đao, vật lộn với sóng lớn và đang chìm dần với cả nhóm thủy thủ. Moisê kêu lên:

Lạy thầy, xin hãy nhìn xem kìa, chiếc thuyền nhỏ đang chìm dần.

Một lần nữa thầy giáo ra hiệu cho Moisê phải giữ im lặng. Moisê không dám nói gì thêm nữa, nhưng trong lòng không khỏi phân vân lo lắng.

Khi hai thầy trò trở về nhà, Moisê liền đem sự việc đến bàn hỏi cùng Chúa.

Chúa phán: thầy con làm như vậy là có lý, đứa bé chết đuối trong nước sông, nếu không chết, lớn lên nó sẽ là tên tướng giặc gây chiến giữa hai quốc gia, và hàng ngàn người vô tội sẽ phải chết thảm thương. Còn chiếc thuyền nhỏ ngoài biển kia đang chở theo một bọn cướp hung dữ, chúng đang dự bị tấn công một làng nhỏ gần vùng biển. Nếu chúng không bị đắm thuyền, thì chúng sẽ cướp phá và giết hại dân làng vô tội.


Các bạn thân mến!

Các bạn đã nghe được tiếng nói của im lặng bao giờ chưa? Nó không phải là điều nghịch nghĩa. Sự thầm lặng nói với tiếng nói thâu suốt tâm lòng con người. Lời lẽ của nó thân tình và quan trọng. Quan trọng, bởi vì những lời lẽ đó dẫn đưa chúng ta đến chỗ suy tư với chính mình, lắng nghe tiếng nói của thiên nhiên, của vạn vật và của Chúa trong tâm hồn ta nữa.

Tiếng nói của thầm lặng thúc đẩy chúng ta tìm hiểu sự chân thật, đồng thời cũng chỉ bảo chúng ta cách đối thoại với thực tại đang chờ đón ta. Sự thầm lặng sẽ giúp ta không bị hoa mắt trước những ảo mộng hão huyền, không bị mỏi mệt vì tiếng ồn ào huyên náo.

Thỉnh thoảng chúng ta cũng cần phải rút lui vào trong chính mình một chốc lát, cho dù chỉ một vài phút để nghỉ ngơi tinh thần, để khám phá ra sự thật trong thinh lặng, để định hướng đi và hướng dẫn bánh lái của cuộc đời ta.


Lạy Chúa, này đây con xin im lặng trước nhan thánh Chúa, con nhìn Chúa và con biết Chúa cũng đang nhìn con. Chúa thấu tỏ mọi sự, xin hãy nói và con đang lắng nghe với tất cả tâm hồn, tất cả trí khôn. Xin hãy truyền cho sóng gió của dục vọng, của ham muốn trong đời con phải lặng thinh, để tâm hồn con trở nên phẳng lặng và trong sáng, để có thể phản ảnh dung nhan của Chúa, để con biết nhìn mọi sự với cái nhìn của Chúa, cái nhìn của lòng tin yêu, cậy trông và phó thác trong sự quan phòng đầy khôn ngoan của Chúa. Amen.

Rario Veritas
(Nguồn: http://suyniemhangngay.org/sn2/1008_TiengNoiCuaThinhLang.php)

Thứ Năm, 12 tháng 8, 2010

ĐTC: Người luôn cầu nguyện thì không bao giờ cô đơn




Khi giải thích về đoạn Phúc Âm nói về việc các môn đệ xin Chúa dạy cho họ cầu nguyện, ĐTC chỉ ra nhận xét là Chúa Giêsu không đưa một công thức kỳ lạ hoặc khó hiểu bí nhiệm, nhưng trả lời họ rất đơn sơ và dạy cho họ Kinh Lạy Cha.. .

Anh Chị Em thân mến,

Bài Phúc Âm chủ nhật hôm nay trình bày Chúa Giêsu trầm tư cầu nguyện, hơi cách xa các môn đệ. Khi Chúa vừa cầu nguyện xong, một người trong các môn đệ lên tiếng: "Lạy Chúa xin dạy cho chúng con cầu nguyện (Lc 11,1). Chúa không từ chối, Chúa không đưa ra những công thức kỳ lạ hay bí nhiệm nhưng rất là đơn sơ, Chúa nói: Khi các ngươi cầu nguyện thì nói.. . " và dạy cho họ đọc kinh Lạy Cha (Lc11,2-4) rút ra từ chính lời cầu nguyện của Chúa, khi Chúa cầu cùng Thiên Chúa, Đức Chúa Cha.

Thánh Luca truyền đến cho chúng ta "Kinh Lạy Cha" ngắn gọn hơn trong Phúc Âm của thánh Matthêu mà chúng ta đọc ngày nay. Đó là những kinh đầu tiên từ Kinh Thánh mà chúng ta học từ thuở còn nhỏ. Những lời kinh đó nằm trong ký ức của chúng ta, vun đắp đời sống chúng ta và theo sát chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng. Những lời kinh đó cho chúng ta biết chúng ta chưa hoàn toàn là con cái của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải trở thành hoàn hảo hơn nhờ vào sự thông công sâu xa vớí Chúa Giêsu. Trở thành con Chúa có nghĩa là đi theo Chúa Kitô.

Bài kinh này đón nhận và bày tỏ những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người: " Xin cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin tha tội cho chúng con. Và lẽ đương nhiên vì những nhu cầu và những khó khăn hằng ngáy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: Và Thầy, thầy bảo các ngươi: "Thế nên, Thầy bảo anh em, anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gỏ cửa thì mở cho. Vì hể ai xin thì nhận được, ai tim thì thấy, gỏ cửa thì mở cho."

Không phải xin để thỏa mãn lòng ước muon của mình nhưng là để có mối liên lạc mật thiết với Thiên Chúa như được nhắc đi nhắc lại trong Kinh Thánh là "Chúa ban thánh thần cho ai cầu xin. Các thánh tổ phụ xưa ở trong sa mạc có kinh ngiệm là luôn luôn suy niệm. Và qua lời cầu nguyện họ trở thành những người bạn của Thiên Chúa, như Abraham cầu khẩn Chúa tha cho những người công chính khi Thiên Chúa hủy diệt thành Sodome.

"Thánh Terêxa Avila mời gọi hai nữ tu cùng cầu nguyện: " Chúng ta phải cầu xin Chúa luôn luôn giải thoát chúng ta khỏi mọi sự hiểm nghèo và luônche chở chúng ta tránh mọi sự dữ, Và nếu như ước muốn của chúng ta không hoàn hảo, chúng ta cũng đừng cố chấp về lời cầu xin của chúng ta. Chúng ta phải trả giá như thế nào khi chúng ta đòi hỏi quá nhiều nơi Đấng Toàn Năng?"

Mỗi lần khi chúng ta đoc kinh Lạy Cha, lời kinh của chúng ta hiệp cùng lời kinh của Hội Thánh bởi vì kẻ nào cầu nguyện thi không lẻ loi, cô đơn. Moị người tín hữu phải tìm kiếm và sẽ tìm thấy sự thật về sự phong phú của sự cầu nguyện của người Kitô hữu đã được Giáo Hội truyền dạy.

Hôm nay chúng ta tôn kính thánh tông đồ Giacôbê còn được gọi là "thánh Cả", ngài đả từ bỏ cha mình và công việc đánh cá để đi theo Chúa Giêsu như là người tông đồ đầu tiên và đã hy sinh mạng sống vì Chúa.

Tôi đưa ra một ý tưởng đặc biệt phát xuất từ trong tâm can và chuyển đến những người hành hương đến từ Saint Jacques de Compostelle! Xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ chúng ta khám phá vẽ đẹp và ý nghĩa sâu xa về lời cầu nguyện của người Kitô hữu" (Nguôn tin VIS).

Pt Huỳnh Mai Trác

Thứ Ba, 10 tháng 8, 2010

CUỐI CHÂN TRỜI SAO VÀ BIỂN HÔN NHAU




Không có nghĩa mỗi lần sóng vỗ
Là nồng nàn hôn cát đâu em..
Vâng, em hiểu ngoài khơi kia trăm gió,
Đưa sóng về rồi đẩy sóng xa thêm...

Không có nghĩa những con tàu đêm đêm
Khắc khoải bởi hải đăng còn thao thức.
Thăm thẳm lạc giữa đại dương màu mực
Biết về đâu nếu chỉ một thân tàu?

Cuối chân trời sao và biển hôn nhau
Bờ lặng lẽ cúi đầu không dám khóc..
Mai sóng về mỏi mòn và nặng nhọc
Thuở bên bờ trong giấc ngủ vô tâm..

Hoàng hôn ơi sao mắt bờ quầng thâm?
Xưa biển hứa ngàn năm yêu cát trắng
Phiêu du mãi để hàng dương khô nắng
Sóng có bao giờ yên lặng đâu bờ yêu!

Đại dương xa gió rủ rỉ rất nhiều
Sao nhấp nháy từ ban chiều chờ đợi!
Không có nghĩa mỗi lần nghe sóng nói
-Yêu rất nhiều- là cho cả bờ đâu...

Thứ Bảy, 7 tháng 8, 2010

Cầu Nguyện Và Sự Biết Mình



Trước cửa đền Appolon ở Delphes có ghi câu này "Hãy tìm cho biết về chính mình mày". (Connais toi, toi meme). Đây là một câu mang tính sấm ngôn của minh triết Hy lạp đã có cách nay trên 25 TK . Triết Hy Lạp trải qua ba thời kỳ , một là Thần thoại hay còn gọi là Thần minh luận ( Theogonie ) hai là vũ trụ luận ( Cosmogonie ) và ba là lý trí luận( logique ). Theo tôi chỉ trong thời Thần thoại mà triết Hy lạp mới xứng danh minh triết và tính minh triết của nó được thể hiện chính là ở nơi cái sự " Biết mình " này đây. Toàn bộ triết Tây phương cho đến hiện thời vẫn còn mang đậm dấu ấn duy lý mặc dù người ta đã muốn dũ bỏ nó nhưng không được. Bằng chứng rõ nhất đó là Nietzhe ( 1844 – 1900 ) người chủ trương hiện sinh thuyết lại đã lớn tiếng chỉ trích câu khẩu hiệu " Biết mình " cho đó là lời nói độc hại xấu xí. Vì hễ ai quay lại nhìn mình tức là đã chặn đứng sự nảy nở không khác chi con sâu bỏ ra tìm hiểu về mình thì có bao giờ trở thành bướm ?" ( Kim Định Nhân Bản ) Mục đích ra đời của triết hiện sinh là để phản bác lại duy lý mà họ cho rằng đó là thứ triết học vong thân , phóng thể ( alienation ) xa rời đời sống, bỏ quên con người. Ảnh hưởng của triết hiện sinh đặc biệt là với Thần học trong nửa cuối thế kỷ 20 vừa qua là rất đáng kể. Có thể nói là từ đây , ở nơi quan điểm hiện sinh này mà trào lưu nhân bản đã được phát huy nở rộ. Thay cho triết/thần học trước đây lấy đối tượng là vũ trụ thì nay hiện sinh lại bảo phải quay về với con người. Thế nhưng thử hỏi đó là cái con người nào mà triết hiện sinh muốn quay về ? Xin thưa cả Nietzhe vô thần lẫn Gabrielle Marcell hữu thần đều chủ trương quan điểm về tư thân ( Corps propre ) cho con người chính là cái xác thân của nó ( Je suis mon corps ). Toàn bộ triết học hiện sinh bất kể thuộc khuynh hướng nào ta thấy đều trái ngược hẳn với đạo lý " Bỏ mình " của Đức Kito:

" Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình , vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai hễ vì cớ Ta mà mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được . Vì chưng được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn mình thì nào được ích gì" Mt 16, 24 – 26.

Lời này đã đánh động không biết bao nhiêu là linh hồn khiến cho họ được ơn trở lại mà trong số đó trước hết ta phải kể đến Augustino, vị Thánh giáo phụ đã được giáo hội ghi nhận như là người tiên phong trong lãnh vực khám phá nội tâm cùng với lời cầu nguyện " Lạy Chúa xin cho con được nhận biết Chúa và nhận biết mình , để con hết lòng kính mến Chúa và khinh chê mình ". Ở đây ta thấy để có được lòng kính mến Chúa thì phải khinh chê , tức bỏ mình đi, bỏ nhiều bao nhiêu thì lòng kính mến Chúa tăng trưởng được bấy nhiêu. Có hiểu như vậy thì mới nhận ra được Lời Chúa = cứu lại mất, bỏ lại được , cái muốn cứu ấy ám chỉ cho thân xác. Những kẻ nào chỉ biết lo lắng cho bản thân, cho cuộc sống gian trần này thì khi đến lúc xuôi tay nhắm mắt sẽ chẳng còn gì ngoài nỗi đắng cay tuyệt vọng. Ngược lại nếu biết coi thân xác và cuộc sống này chỉ là giả tạm để biết lo cho phần linh hồn mình thì kết quả sẽ là phần thưởng an vui đời đời trên nước Thiên đàng. Thánh Augustino nhận thức sâu sắc được điều ấy nên ngài mới thốt lên lời nguyện xin cho được nhận biết để kính mến Chúa . Lời nguyện của thánh Augustino trước hết đó là một cuộc tìm mà trong đó cần phải có hai yếu tố đồng thời , một là ước ao kính mến Chúa và hai là khinh chê mình, thiếu bất cứ điều nào thì cuộc tìm sẽ thất bại.

I/- Cầu nguyện như một kiếm tìm.

Có nhiều lý do khiến con người đến với cầu nguyện. Hoặc do hiếu kỳ , muốn Chúa làm phép lạ thì Ngài đáp thẳng " Quả thật Ta nói cùng các ngươi , hẳn chẳng cho dòng dõi này một dấu lạ gì" Mt 12, 38- 39.. Hoặc vì quyền lợi riêng tư nào đó thì nhắc nhở " Các ngươi không hiểu điều các ngươi xin" Mc 10, 35- 38..Còn có những người bệnh hoạn tật nguyền xin được cứu chữa. Vì tình thương bao la Chúa vẫn cứu đấy nhưng đó không thực sự là ý nguyện của Ngài. Đức Kito nói với người đàn bà có con bị quỷ ám.. " Ớ dòng dõi vô tín kia, Ta còn phải chịu nhịn các ngươi cho đến chừng nào…?" Mc 9, 17. Quả thực Chúa Giesu là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót nhưng Ngài đến với cõi thế không phải để cứu chữa phần xác thân cho con người. Sau khi ở lại Carphanaum mấy ngày, chữa bệnh , trừ quỷ cho nhiều người rồi Ngài ra đi mặc cho dân thành ấy muốn giữ lại " Ta còn cần phải rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho các thành thị khác vì cốt tại việc đó mà Ta được sai đến" Lc 4, 40 – 43. Bao lâu chưa nhận ra sứ mạng đích thực của Đức Kito thì mọi lời cầu xin của con người không thể đẹp lòng Ngài. Điều mà Chúa muốn con người cầu không những không phải là những nguyện ước riêng tư vị kỷ nhưng ngay cả đến những lời cầu chung chung như xin cho hòa bình thế giới, xin cho quốc thái dân an v.v…cũng vậy. Tại sao thế ? Bởi vì Chúa chịu nạn chịu chết chẳng phải là để đem hòa bình trên đất này hoặc sướng vui cho dù cá nhân hay bất cứ dân tộc nào " Chớ tưởng Ta đến để đem hòa bình cho mặt đất bèn là gươm giáo. Ta đến để làm cho người ta trái ý nhau, con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù nghịch của người nào lại là người nhà của kẻ ấy" Mt 10, 34 – 36. Những lời này lại là một nghịch lý khác mà chúng ta chỉ có thể hiểu được trong tính chất xuất thế của nó. Xuất thế không có nghĩa là phải rời bỏ đời sống này để đi đến một nơi chốn xứ sở nào khác. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa chúng ta những kẻ có đạo vẫn cứ sống cuộc sống như những người vô đạo khác. Có đạo thì phải sống đạo mà Đạo Chúa là đạo bỏ mình , bởi đó cho nên dù là chúng ta vẫn sống ở đời như bao người khác nhưng cần phải bỏ mình tức là cố gắng bớt dần tham sân si, mạn nghi tật đố đi…Sống đạo bỏ mình như thế tất nhiên khác hẳn với thế gian những người chỉ biết bám lấy đời sống này , cho đó là cứu cánh. Bởi Chúa rao giảng một thứ đạo xuất thế như vậy nên không thể không gây nên những sự xung đột rẽ chia đến từng mỗi gia đình, giữa con trai với cha, con gái với mẹ…Trường hợp nổi tiếng nhất đó là của Thánh Phanxico d' Assisi với cha của mình và còn vô số trường hợp khác nữa…Đồng thời cũng chính vì đạo xuất thế ấy chứ chẳng phải lý do nào khác mà Chúa đã bị đóng đinh và giết chết trên cây thập tự. Thế gian giết Chúa cũng như bách hại đạo Thánh của Ngài , điều ấy đã được báo trước " Nếu các ngươi thuộc về thế gian thì thế gian chắc yêu mến kẻ thuộc về mình. Nhưng vì các ngươi không thuộc thế gian, song Ta đã lựa chọn các ngươi ra khỏi thế gian nên thế gian ghét bỏ các ngươi" Ga 15, 19. Đạo Chúa là đạo xuất thế, vượt khỏi mọi suy tư lý luận, chính bởi vậy Thiên Chúa mới đòi hỏi con người cần phải hết lòng tìm, có tìm mới gặp, không tìm thì không thể gặp " Các ngươi sẽ tìm Ta và gặp được khi các ngươi tìm kiếm Ta hết lòng.. " Gr 29, 13. Trong việc kiếm tìm này, cầu nguyện là phương thế tối cần, tuy nhiên cầu nguyện thì phải bỏ đi được mình đó mới là chân thật cầu nguyện.

II/- CẦU NGUYỆN ĐỂ BỎ MÌNH

Cầu nguyện trong đời sống tâm linh là việc tối ư quan hệ. Thánh Gioan Maria Vianey nói " Người không cầu nguyện sẽ giống như loài gà, vừa cất cánh bay là đã rơi phịch xuống đất" . Mặc dầu vậy để thực sự có ơn ích thì cầu nguyện cần phải có sự bỏ mình. Trong sứ điệp mùa chay 2007 Đức Mẹ dạy " Cầu nguyện mà không bỏ bản thân thì cũng giống như ta chèo một con thuyền bị cột chặt vào bến . Ta sẽ không thể nhúc nhích được một chút nào cho đến khi cởi giây cột thuyền ra" Bến ở đây ám chỉ cho đời sống trần gian. Còn giây cột thuyền đó là " Cái Tôi" của mỗi người . Cầu nguyện là một nhu cầu tâm linh không thể thiếu. Thế nhưng trong thực tế, việc ấy rất nhiều khi chỉ là hình thức. Ở đây không đề cập tới những người mà đa số là giới trẻ, vào những ngày chủ nhật , họ vẫn đều đặn tới các nhà thờ nhưng ngồi ở ngoài nói chuyện rì rầm, có khi còn lén hút cả thuốc lá. Với những con người ấy, họ chẳng có một chút ý niệm gì về cầu nguyện. Lại có những người khác xem ra có vẻ đạo đức lắm, đi lễ hàng ngày , tham gia hội nọ đoàn kia v.v..thế nhưng những việc đạo đức đối với họ cũng chỉ như một thói quen tốt vậy thôi, họ vẫn chưa thực sự có nhu cầu cầu nguyện. Nói một cách khác họ chỉ thực hành những việc đạo đức ấy khi nào nó có lợi cho mình, được ơn này ơn kia v.v..Nếu ngược lại có thể là họ sẽ đặt lại vấn đề với Chúa , không còn tin tưởng nơi Ngài như vị Thần hộ mạng . …Tất cả những hạng người vừa kể họ không thể tiến một bước nhỏ nào trên đường tâm linh bởi như Đức Mẹ nói "con thuyền vẫn còn bị cột chặt vào bến". Cầu nguyện cách chân thật không thể vì " Cái Tôi" mà cầu bởi lẽ Thiên Chúa không phải một Đấng xa lạ nào khác mà đích thực Ngài ở trong ta, là CHA của mỗi một người. Cầu nguyện làm sao phải nên như cuộc chuyện trò thân mật giữa cha và con " Hãy vào phòng đóng cửa , cầu nguyện với CHA của con cách kín đáo và Cha con thấy mọi sự sẽ nghe lời con. Không cần hình thức chỉ cần tâm tình phụ tử" (ĐHV 127) Chúa bảo khi các con cầu nguyện phải vào phòng, đóng kín cửa lại mới được nhậm lời. Đóng kín cửa có nghĩa không để giác quan phóng túng nơi ngoại vật. Đang nghiêm trang đọc kinh , chợt nghe một âm thanh nào đó, tiếng chim , tiếng còi xe v.v..liền vểnh tai lên nghe ngóng quên cả việc đọc kinh . Đang chăm chú nghe sách Thánh nhưng một hình ảnh bất chợt nổi lên trong trí như nhớ lại một bài báo, một cảnh phim hay lời nói của một người nào đó thế là lập tức quên đi ngay Lời Chúa, chẳng biết cha chủ tế vừa đọc gì nữa. Sự chia lòng chia trí trong khi cầu nguyện ( đọc kinh, dâng lễ v.v..) là điều không một ai tránh thoát, bởi lẽ nó thuộc về bản chất của con người do nơi ảnh hưởng của tội nguyên tổ là tội đã ăn phải trái cấm phân biệt mà ra ( St 3, 6- 7). Sự chia lòng chia trí xét về khía cạnh thâm sâu của nó đó chính là một thứ căn bản vô minh. Tuy nhiên trong lãnh vực tâm linh thì chỉ khi nào cố ý mới thành tội. Thánh Thomas Aquino nói " Kẻ để trí khôn suy tưởng những sự dông dài thì nó nhạo báng ĐCT, Vì cũng như khi nói chuyện với người thế gian mà chẳng để trí khôn vào những lời mình nói tức là nhạo báng người ấy vậy ( Thánh Alphongso Lioguori Kẻ nữ tu Thánh thiện ).

Đọc kinh mà cứ cố tình chia trí đó là lạc xa thực tại để bước vào cõi sinh diệt hiện tượng. Trái lại biết đó là chia trí bèn quay trở lại với lời Kinh thì đó lại là trở về với thực tại . Như vậy , điều hết sức quan trọng là làm sao phải biết được là mình đang chia trí. Trong tâm một thời ( satna tâm) không thể khởi hiện được hai thức ( thức tức là sự nhận biết ) Lời Chúa thuộc về loại thức mang tính giải thoát, còn lời phàm là loại thức nhơ nhiễm. Lời Chúa được ví như gươm báu " Vì Lời ĐCT là lời hằng sống, linh động sắc hơn mọi gươm hai lưỡi, đâm thấu đến nỗi chia hồn linh khớp tủy biện biệt tư tưởng và ý định của lòng người" (Dt 4, 12). Cầu nguyện bằng cách đọc kinh chính là trang bị cho mình một thứ gươm sắc bén để thắng vượt " Cái Tôi" tức ý riêng mình hầu đi sâu vào nội tâm là nơi Thiên Chúa vẫn hằng hữu ở đó như một người cha nhân từ chờ đón đứa con hoang đàng trở về là chính chúng ta.

III/- CẦU NGUYỆN ĐỂ BIẾT MÌNH

Nhân loại xét về mặt tâm linh đều là những đứa con hoang do bởi đã được sinh ra cùng một bà mẹ Eva " Adam gọi vợ là Eva vì bà là mẹ của chúng sinh" (St 3, 20.) Nên nhớ Eva chỉ trở thành mẹ chúng sinh sau khi đã bị xua đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng do đó mà nói chúng ta là những đứa con hoang lẽ ra không còn được phép nhìn nhận Thiên Chúa là Cha nữa . Tuy nhiên theo lời hứa của Giehova Thiên Chúa , Đức Kito đã xuất hiện nơi đời hầu cho chúng ta được ơn trở lại làm Con Thiên Chúa "Lại vì anh em đã là con nên TC đã sai Thánh linh của Con Ngài vào lòng chúng ta kêu lên rằng= Aba, lạy Cha. Dường ấy người không phải là tôi mọi bèn là Con và nếu là Con thì cũng là kẻ đồng thừa tự bởi Thiên Chúa vậy" ( Gal 4, 6- 7.) Chúng ta đều là con cái Thiên Chúa và hàng ngày mọi tín hữu đều vẫn xưng tụng và cầu khẩn với Đấng là Cha ấy . Thế nhưng thực tế cho thấy đó chỉ là những lời cầu mang tính hình thức trống rỗng chẳng hề có chút gì là tâm tình của người con đối với Cha mình. Nhận biết Thiên Chúa là Cha , đó phải là kết quả của một quá trình cầu nguyện lâu dài để "Biết Mình" Bao lâu chưa biết được mình thì vẫn chưa thể nhận biết Thiên Chúa đúng như Ngài là. Lý do bởi vì giữa " Cái Tôi" và Thiên Chúa không thể cùng tồn tại. Còn thấy có Tôi thì không thể thấy Chúa , phải bỏ cái Tôi , bỏ thật hết đi thì Đấng Cha mới có cơ hiện tiền.

Có hai điều cần có cho việc " Biết Mình" = Biết gần là biết về thân thể mình, còn biết gần hơn nữa là biết về tư tưởng mình . Con người bởi cho thân xác là mình nên hết lòng cung phụng lo lắng cho nó muốn nó mãi trường tồn nhưng nào có ai thoát được sinh lão bệnh tử.? Cũng chỉ vì cái chấp đó mà người ta cho rằng hữu lý những câu nói đại loại = có thực mới vực được Đạo hoặc xem ra có vẻ cao siêu thần học hơn như là ..trước kia người ta chỉ quan tâm đến phần rỗi các linh hồn nhưng nay thì phải quan tâm đến cả những gì liên quan tới thân xác của nó = bảo vệ thai nhi, kéo dài tuổi thọ.v.v.. và v.v…Dẫu vậy với cái chấp này còn có phần dễ chữa hơn là chấp tư tưởng , nghĩ suy là mình. Thân xác thì hữu hình , để phá đi cái chấp ấy giáo hội dạy cần phải ăn chay kiêng thịt và làm các việc lành phúc đức khác. Còn tư tưởng là cái vô hình không thể nắm bắt nếu không chuyên tâm cầu nguyện. Bởi lẽ đó Thánh Benado nói " không nguyện ngắm tất không lấy mình làm ghê sợ, vì không biết mình" ( Thánh Alphongso Kẻ nữ tu Thánh thiện). Con người do không biết mình nên luôn ngỡ rằng mình đạo đức Thánh thiện công chính lắm, nghe người khác khen một chút là vểnh mặt lên, trái lại bị chê nửa lời thì xìu mặt xuống…. Có thể là người , kể cả chính mình không biết nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt , tất cả rồi sẽ phơi trải trước Tôn Nhan vì Ngài là Sự Thật.

IV/- Cầu nguyện với vai trò của Đức Maria

Vấn đề "Biết Mình" suy cho cùng thì đó là mối ưu tư của cả nhân loại dù đông hay tây, cổ hay kim, có tôn giáo hay không có tôn giáo cũng vậy " Thiên hạ lo gì nghĩ gì ? Thiên hạ tuy có nhiều đường khác nhau nhưng cũng về một chỗ, trăm điều lo nghĩ mà vẫn quay về một mối. Thiên hạ lo gì nghĩ gì?"( Thiên hạ hà tư hà lự ? Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ , nhất trí nhi bách lự. Thiên hạ hà tư hà lự- Dịch – Hệ từ hạ ). Cái mối lo đáng gọi là lo của con người là lo về lẽ tồn vong của mình. Bởi đâu mình sinh ra? Sống trên đời này để làm gì, chết rồi đi đâu. V.v..Những câu hỏi ấy luôn dằn vặt con người , đòi hỏi cần phải có câu trả lời thỏa đáng. Phúc cho những ai đã có cho mình câu trả lời và quyết tâm theo đuổi. Ngược lại thì vật vờ chẳng phải sống mà cũng chẳng phải chết, triết Tây phương đang trong tình trạng như vậy. Một đàng họ không thể gạt bỏ được vấn đề Biết Mình của minh triết. Một đàng thì không biết được lối vào. Người ta ví Socrate giống như người dẫn trẻ đến vườn rồi bảo vào mà không chỉ cửa. Bảo hãy biết mình mà không chỉ phương pháp nên môn sinh người thì vào sinh vật học như Aristote (384 – 322) còn Platon (427 – 347) thì vào thế giới lý niệm. Tất cả mong mỏi tìm biết nhưng rút cục như Faust đi đến chỗ bán cả linh hồn để mua tri thức mà vẫn chẳng được. (Kim Định Sđd )

Bán linh hồn để mua tri thức, đây là một sai lầm chết người của triết học, nó hoàn toàn ngược lại với con đường, đạo là đường của Đức Kito = lời lãi cả và thế gian , mất linh hồn thì nào được ích gì.. Chỉ linh hồn mới vô giá, ngoài ra tất cả chỉ là phù ảo. Lời lãi cả và thế gian này còn chẳng đáng chi huống nữa là mớ tri thức chết khô giá lạnh của ngôn từ ? Triết học dù là Tây hay Đông cũng chẳng thể có lối "VÀO", duy chỉ có những bậc đại triệt đại ngộ, Đức Kito rao giảng Tin Mừng Nước Trời chính là để cho con người một lối vào " Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết, rồi từ đó Tin Mừng Nước Trời được rao giảng và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào" Lc 16, 16.) " Vào" ở đây chỉ có nghĩa là vào trong tâm khảm mình, hiểu như vậy thì "vào" cùng với "Biết" là một. Chúa dạy phải nỗ lực mà vào, điều ấy đâu có khác gì = hãy tìm biết về chính mình ? Đối với Kito giáo thì vào trong Tâm không phải là vào một nơi chốn không không tịch diệt nhưng là vào với Đấng cứu tinh Giesu của mình. Chẳng phải mỗi chúng ta khi lãnh nhận Bí tích rửa tội đã chẳng có Chúa Kito nơi mình sao? Chúa sở dĩ có được ở trong ta là vì có giáo hội . Thử hỏi không có giáo hội thì làm gì có phép rửa cho ta lãnh nhận? Lại nữa không có Đức Giesu Kito ra đời thì lấy ai để thiết lập giáo hội và rồi cuối cùng nếu chẳng có Đức Maria với Tiếng Xin Vâng của Ngài thì Đấng Emmanuel đâu thể làm người ? Mt 1, 23)

Đức Maria là Đấng Trung gian cầu bầu , bởi đó tất cả những lời cầu xin con người đều phải qua trung gian ấy mới đẹp lòng Thiên Chúa- Chính là Thiên Chúa muốn như thế, biết bao tín hữu đã tin niềm tin đơn sơ như thế , từ những con dân thành Epheso cùng nhau rước kiệu mừng sự thành công của công đồng ( 431) tung hô = Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.." cho đến Thánh Pio năm dấu không một giờ phút nào rời Kinh Mân Côi, có thể nói Kinh đã hòa nhập làm một với ngài. Khi được hỏi di sản cha muốn trối lại cho các con thiêng liêng là gì? Ngài đáp " Là chuỗi Mân Côi" Hai ngày trước khi qua đời cha còn nhắc= Hãy yêu mến Đức Mẹ và làm cho Mẹ được yêu mến . Hãy lần chuỗi Mân Côi và lần luôn luôn , càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu" ( Ơn gọi của Mẹ Teresa Calcutta).

Hãy yêu mến Đức Mẹ và làm cho Mẹ được yêu mến vì Ngài chính là thuyền từ cứu độ. Ném một hột cát xuống nước dù nhỏ cũng chìm liền, nhưng nếu có cẩu một tảng đá to đặt trên thuyền thì thuyền vẫn chở đi rất nhẹ. Phó thác cậy trông ở Mẹ thì Mẹ chẳng bỏ ai bao giờ.

Tác giả Phùng Văn Hóa

Hiệu quả của lời cầu xin



Đời sống của Đức Giê-su luôn chìm đắm trong ân sủng của cầu nguyện, từ sáng sớm cho đến lúc chiều về, Ngài luôn cầu nguyện và dạy các Tông đồ của mình cũng hãy làm như vậy. Bản kinh Lạy Cha được ra đời trong hoàn cảnh: " Lần kia, Ngài cầu nguyện ở một nơi nọ; Ngài xong rồi thì một môn đồ thưa Ngài: " Lạy Thầy, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Gioan đã dạy các môn đồ của ông"

(Lc 11, 1). Chẳng phải người môn đồ của Đức Ki-tô, vì chiêm ngưỡng Thầy mình cầu nguyện trước, rồi khao khát cầu nguyện đó sao?

Cầu nguyện là gì?

Có nhiều cách để định nghĩa về điều này, nhưng như Thánh Gioan Đamascênô: " Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp", còn Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su thì: " cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ hướng về Trời, là tiếng kêu tri ân và yêu mến cả trong cơn thử thách lẫn trong lúc vui mừng". Và trong cả những lúc: " Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải" (Rm 8,26), thì Thiên Chúa vẫn luôn đáp lời và sẵn sàng đón nhận những lời cầu xin " Từ vực thẳm" (Tv 130. 1), của mỗi chúng ta.

Tổ phụ Abraham cầu nguyện

Thiên Chúa muốn phạt và tiêu diệt dân thành Sô-đôm và Gomora, vì tội lỗi của họ. Abraham muốn cứu dân khỏi tội chết. Ông cầu xin cùng Thiên Chúa, với lời cầu nguyện thống thiết, nài nỉ và kiên trì. Con số năm mươi người công chính có mặt trong thành, rồi từ từ hạ xuống với con số là mười người. nhờ lời cầu bàu của Abraham, Thiên Chúa đã không hủy diệt các dân trong thành.

" Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho"(Lc 11, 9). Sống cầu nguyện là sống tin, cậy và mến Chúa một cách trọn vẹn. Sự tín thác vào Chúa quan phòng sẽ giúp con người thoát khỏi mọi ràng buộc trên bước đường trần thế, và chỉ để cuộc đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay của Thiên Chúa đầy lòng từ bi.

Lm Gia-cô-bê Tạ Chúc

CẦU NGUYỆN KHI THẤT VỌNG



Chắc hẳn ai cũng có những lúc ưu sầu, chán nản, lo lắng, thất vọng tưởng như mình đang ở tận cùng nỗi khổ. Kathryn J. Hermes, F.S.P, đưa ra 10 "kỹ thuật thiêng liêng" giúp chúng ta tìm ra tiếng nói của sự cầu nguyện trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời.

Khi thất vọng, có thể bạn thấy rằng nỗi thất vọng biến đổi cách bạn nhìn Chúa và cách bạn tin Chúa nhìn mình. Khi bạn cầu nguyện, có thể bạn không thể ngồi im hoặc tập trung lâu. Mọi thứ có thể có vẻ như một khoảng lặng mênh mông, thậm chí quá vô ích. Có thể Thiên Chúa có vẻ như đang mỉa mai nỗ lực cầu nguyện của bạn. Có những người đã 3 năm, 5 năm, 10 năm chưa thực sự cầu nguyện, dù họ vẫn còn niềm tin và vẫn dành thời gian cầu nguyện, nhưng có thể chỉ là sự trống rỗng vì chỉ là thói quen và phản xạ. Trong bóng tối hãi hùng, nơi mà mọi sự giao tiếp đều lặng lẽ, họ cảm thấy cô đơn, chán nản, thất vọng, bực tức. Vậy họ có cầu nguyện không? Có.

Nếu tình trạng này xảy ra với bạn, hãy cố gắng áp dụng các cách cầu nguyện và cách thể hiện tình yêu chiêm niệm dưới đây:

1. Tìm nơi thanh vắng


Hãy nghe nhạc êm dịu, chỉ mở vừa đủ nghe. Hãy hít thở sâu vài phút và thư giãn. Hãy cảm nhận chiếc ghế bạn đang ngồi và phần đất bạn đang chạm chân. Hãy ngửi mùi vị quanh bạn. Hãy tưởng tượng Chúa Giêsu đang đến với bạn và đang tươi cười với bạn. Hãy tâm sự với Ngài về các cảm xúc của bạn lúc này (lo lắng, bất an, bồn chồn, rối trí, thất vọng…), kể cả những cảm nhận của bạn về cuộc sống. Hãy cởi mở với Ngài, hãy cảm nhận Ngài ở rất gần bạn, hãy để tình yêu Ngài đến với bạn và cảm tạ Ngài về tặng vật yêu thương này.

2. Đi dạo


Có thể vừa đi dạo vừa nghe nhạc vui. Khi dạo bước, hãy chú ý bầu trời và cảm nhận về mùa với những gì đang xảy ra quanh bạn. Hãy hướng lòng lên Chúa Giêsu, ngay cả lúc đau khổ nhất. Có thể bạn dạo bước một mình nhưng có Ngài trong tâm hồn bạn. Hãy nói với Ngài về cảm giác của bạn. Hãy nhớ rằng Ngài luôn muốn bạn nói với Ngài về mọi thứ trong đời bạn, dù vui hay buồn, dù thất bại hay thành công.

3. Nhớ đến những người đang đau khổ


Hãy nhớ đến ai đó mà bạn biết họ đang đau khổ hoặc bệnh tật. Tập trung vài phút vào những gì mà người đó đang cảm thấy và những gì bạn muốn nói với họ. Hãy dâng họ cho Chúa Giêsu và xin Ngài chúc lành cho họ.

4. Bám vào Thánh giá


Hãy cầm Thánh giá trên tay, nhắm mắt lại và nghĩ đến Chúa chịu đau khổ. Hãy liên kết các đau khổ của bạn trong Ơn Cứu độ của Ngài.

5. Bám vào Lời Chúa


Nếu bạn cảm thấy thấp hèn, nhỏ mọn, hãy tìm nơi thanh vắng và đọc Kinh Thánh. Hãy tập trung đọc thánh vịnh 130 (Từ vực sâu con kêu lên Chúa, linh hồn con trông cậy Lời Ngài…). Hãy chú ý mức độ cảm xúc của bạn dù có thể bạn cảm thấy không thoải mái. Hãy biết rằng Thiên Chúa luôn yêu thương bạn qua những lúc cuộc đời bạn đen tối và sầu khổ nhất.

6. Mở lòng ra với Chúa


Khi bạn không thể tập trung vì đầu óc rối bời, hãy cố gắng ghi nhớ và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con yêu mến Chúa". Hãy cố gắng mở lòng ra với Chúa.

7. Suy niệm về tiếng kêu của Chúa Giêsu


Mở nhạc nhẹ và suy đi nghĩ lại câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài bị treo trên Thập giá: "Cha ơi! Sao Cha nỡ bỏ con?" (x. Mc 15,34). Đây là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đối với sự trống rỗng và sự ruồng bỏ.

8. Vào nhà thờ


Khi đi ngang nhà thờ, hãy dừng lại vài phút và kết hợp với Chúa, Đấng luôn yêu thương bạn.

9. Lặp đi lặp lại Thánh Danh Giêsu


Nếu bạn không thể đứng dậy, hãy nằm yên và lặp đi lặp lại Thánh Danh Giêsu. Tình yêu của Ngài sẽ nắm bắt lấy từng lời của bạn và Ngài sẽ ôm bạn vào long với tất cả tình yêu thương.

10. Dành thời gian tâm sự với Chúa


Hãy đến chầu Thánh Thể và dành thời gian để thổ lộ nỗi niềm trước sự hiện diện của Chúa.

Trầm Thiên Thu
(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2010

Thế gian ơi ta biết mi rồi...



VRNs (30.07.2010) - Sài Gòn - Trên đường vạn lý loan báo Triều đại Thiên Chúa đang đến, nhiều người nhìn nhận uy tín của Chúa Yêsu. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Hai anh em chia gia tài với nhau không xong, nên đã cầu cứu, xin Chúa Yêsu làm trọng tài chia của cải giữa họ. Nhưng đối với Chúa Yêsu, tài sản không phải là đối tượng quan trọng nhất để con người ta bỏ mọi sự cho nó, mà sự sống đời đời mới là đối tượng cần quan tâm hơn.



VẬT CHẤT LÀ CHỔ DỰA VỮNG CHẮC?


Trong các hội đoàn Công giáo lúc này tài chánh cũng đã trở thành vấn đề lớn để quan tâm. Nhiều người trong các hội đoàn còn nói "không có tiền thì không làm gì được !". Giá trị của cuộc sống cũng thay đổi. Trước đây tình yêu, lòng chung thủy, sự hy sinh … là những giá trị luôn luôn được xếp ở vị trí cao, còn bây giờ, vị trí cao nhất là "tiền". Để quyết định cho hai bạn trẻ kết hôn với nhau hay bỏ nhau, người ta xem túi tiền của hai bên thế nào, chứ không còn quan tâm lắm hai bạn trẻ đó yêu nhau đến mức nào. Để kính trọng một người thì người đó phải giàu có, chứ người nghèo chỉ có xin ăn, làm phiền cho mọi người thì đừng hòng được ai kính trọng.


Tất cả đều coi vật chất là chổ dựa an toàn.


Trong hoàn cảnh này, dụ ngôn Chúa Yêsu kể rất đáng giá. Một ông nhà giàu có nhiều kho lẫm đầy ấp thóc gạo và những thứ vật chất khác đã thốt lên: "Hôn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã" (c. 19). Nhưng Chúa Yêsu lại quát mắn anh ta: "Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẳn đó sẽ về tay ai?" (c. 20).


Đúng là gần mực thì đen. Một mặt chúng ta chống đối những người vô thần và chủ thuyết của họ. Mặt khác, chúng ta cố gắng thích nghi để sống chung với họ, và chúng ta đã nhiễm họ nặng đến như vậy mà vẫn chưa nhận ra.


Không biết đến bao giờ, người Công giáo chúng ta mới bức ra được khỏi sự buộc chặc của vật chất đến như vậy?



VẬT CHẤT SẼ QUA ĐI


Đam mê vật chất và thế gian không chỉ đến thế kỷ 21 này mới kinh khiếp như thế, nhưng hình như thời nào cũng vậy. Thời thánh Alphongsô, thế kỷ 18 là một ví dụ điển hình.


Bố của ngài, cụ Joseph Ligori rất tin Chúa nhưng cũng rất tin vào quyền lực thế gian và vật chất. Ông tự hào vì vinh quang đang tỏa ra nơi chàng trai luật sư Alphongsô, con trai ông, và ông cho rằng đó là một bảo đảm chắc chắn. Nhưng Alphongsô là người trong cuộc thì thấy khác.


Sau những cuộc tranh tụng oai hùng tại pháp đình, chàng luật sư lại lầm lủi đến làm bạn các bệnh nhân hết thuốc chữa của bệnh viên, chứ không lao vào tiệc tùng ăn mừng chiến thắng. đơn giản vì trong những đám tiệc đó, Alphongsô không thấy được mình, mà cảm thấy lạc lõng. Trong khi đó, bên những người bệnh nan y này, Alphongsô như thấy bóng dáng mình thấp thoáng đâu đó. Một tâm trạng trái ngược hẳn với cụ Joseph và nhiều người khác. Vinh quang thế gian không có gì chắc chắn và dài lâu cả. Bởi vinh quan thế gian không đơn thuần là công lý là sự thật, mà rất nhiều khi nó được kết thành bởi sự gian dối, lộc lừa.


Vụ án cuối cùng của Alphongsô với tư cách là luật sư là một khẳng định chắc chắn rằng vinh quang thế gian chỉ là hư ảo, vì toàn bộ là gian manh. Khi tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền lợi người bị hại, Alphongsô đã bóc trần sự thật một cách hồn nhiên để hầu đem lại lợi ích cho thân chủ. Nhưng thế gian vốn không thích sự thật, nên đã sẳn sàng toa rập với nhau tạo ra một cái như là sự thật, để rồi công nhận nó, mặc dù ai cũng biết đó là giả hiệu, giả dối. Đối diện với biến cố đó, Alphongsô đã phải thốt lên: "Thế gian ơi, ta biết mi rồi !"


Nổ lực của con người để tạo ra sự an toàn cho mình dựa vào vật chất hay vinh quang thế gian cuối cùng cũng chỉ là thế. Nhưng không hiểu tại sao, ngày nay con người lại dễ dàng để mình bị mắc lừa thế gian đến thế?


An Thanh, CSsR

Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

ÔN LẠI NHỮNG LỜI KINH XƯA - Lm Matthew Vũ Khởi Phụng CSsR



Mấy tháng nay dư luận vẫn xôn xao về bản dịch mới Phụng Vụ Thánh Lễ. Nhiều ý kiến đã phát biểu trên báo, trên mạng, trong những cuộc hội thảo, và nhất là trong những câu chuyện hằng ngày. Có ý kiến gay gắt, có ý kiến cay chua. Nghe đâu các đấng bậc trong Hội Thánh không muốn cho tranh cãi nhiều về chuyện này, vì thế có nhiều người định nói lại thôi, nhiều cơ quan ngôn luận đã hoặc đang chuẩn bị đăng tải những ý kiến nảy lửa lại tự kiềm chế, tự kiểm duyệt.


Tôi cũng chẳng có ý đụng vào vấn đề nóng sốt này. Nhưng nhân chuyện dịch thuật lại sinh ra nghĩ ngợi về sự hiệp thông trong Đức Tin xuyên qua những rào cản của ngôn ngữ. Đức Tin chỉ có một, nhưng ngôn ngữ lại rất nhiều và các thứ rào cản thì chẳng biết là bao nhiêu.


Châu Á mình có vinh dự là nơi phát xuất của các tôn giáo lớn. Đạo Chúa Kitô cũng phát xuất từ châu Á. Các giáo sư Thánh Kinh có giảng rằng: Thánh Kinh có nhiều điểm, nhiều lối nói, người phương Đông dễ hiểu, dễ thông cảm hơn người phương Tây. Dù sao, ta là người Đông Á, còn Thánh Kinh lại mang sắc thái Tây Á, thành ra cái giống nhau với cái khác nhau đan xen. Trong lịch sử Đạo lại đi một vòng dài qua phương Tây rồi mới sang Á Đông, thành ra bao nhiêu giai đoạn là bấy nhiêu tầng ngôn ngữ và văn hóa. Là một Đức Tin, là một di sản phổ quát mà biết bao nhiêu bộ mặt biến hóa.


Thuở xưa, bà nội tôi đọc kinh theo kiểu cổ. Công Đồng Đông Dương đã sửa kinh, nhưng cả chục năm sau đó bà vẫn đọc những lời kinh bà quen từ hồi còn trẻ. Bà tôi đọc Kinh Sáng Danh như sau: "Go-lo-ri-a Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Phi-ri-tô-xăng-tô, trước sau đời đời chẳng cùng Amen".


"Go-lo-ri-a" tức là Gloria ( tiếng Latinh ): vinh quang, sáng danh; còn Đức Chúa Phi-ri-tô-xăng-tô là Đức Chúa Spirito Sancto, tức là Đức Chúa Thánh Thần. Còn "trước sau đời đời chẳng cùng" là điều mà bây giờ trong kinh Phụng Vụ dịch là "đến muôn đời", khiến cho nhiều người vẫn còn cãi là dịch như vậy hay hơn, hay cứ nói như ngày xưa hay hơn.


Kinh Kính Mừng thì bà tôi đọc: "Ave Maria, đầy ga-la-ti-a, Chúa Dêu ở cùng bà, nữ trung bà có phước lạ, thai tử Giêsu gồm phước lạ. Xăng-ta Ma-ri-a, Đức Mẹ Chúa Dêu, cầu cho chúng tôi, khi nay và cập thần đẳng tử hậu. Amen".


Ga-la-ti-a đây tức là Gratia ( tiếng Latinh ): ân sủng, ân phước. Chúa Dêu, tức là Deus, Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, phát âm theo kiểu Bồ Đào Nha. Hết âm hưởng của tiếng Latinh thì đến những từ Hán Văn: "Nữ trung bà có phước lạ", dịch lại là: "Bà có phước lạ hơn mọi người nữ", còn "khi nay và cập thần đẳng tử hậu" thì dịch lại là "khi nay và trong giờ lâm tử". Chỉ có "Amen" là đi xuyên suốt từ thời Kinh Thánh, bất kể phương Tây hay phương Đông, thời xưa hay thời nay.


Bà tôi đã từng trải một cuộc đời có đủ hỷ, nộ, ái, ố; đến lúc tuổi già bà ngồi đọc kinh cả ngày không chán. Cũng như bao nhiêu tín hữu khác, bà đâu có biết tiếng Latinh. Tôi tự hỏi không biết trong những năm tháng dài cầu nguyện đó, bà nghĩ đến điều gì khi hướng về "Maria đầy ga-la-ti-a" ( cũng có người đọc: đầy ga-ra-sa ). Chắc là trong mầu nhiệm "ga-la-ti-a" đó có cả sự trải nghiệm của một đời người được thăng hoa trong Đức Tin.


Thế còn những nhà thần học kinh viện đạo mạo thì nghĩ gì khi nói lên: "de gratia" ? Chịu khó lắng nghe các vị giảng về ân sủng, thấy nói đến nhiều loại gratia, nào là thánh sủng, hiện sủng, trợ sủng, hiệu sủng; mà hiệu sủng lại có hiệu sủng ngoại khởi và hiệu sủng nội khởi. Rồi nghe nói vấn đề tương quan giữa "gratia" và con người tự do là một vấn đề khó kinh khủng, khiến cho các nhà thần học cãi nhau cả nghìn năm giữa một rừng khái niệm trừu tượng. Hóa ra có tất cả những sự ấy trong một lời thì thầm "đầy ga-la-ti-a" của bà tôi sao ?


Lại đi nghe các bậc thầy Thánh Kinh giảng về Ân Sủng, thấy một cội nguồn chứa chan huyền diệu: nào là hesed ân nghĩa tín thành, nào là charis yêu thương diễm tuyệt: ( Xh 34, 6 ). "Yavê ! Yavê ! Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa tín thành ( hesed )"


Để rồi cả hesed ( theo tiếng Hipri ) lẫn charis ( theo tiếng Hy Lạp ) kết tinh cả lại nơi Đức Kitô: "Ân sủng ( Charis ) Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần" như Tông Đồ Phaolô vẫn chào mừng Dân Chúa.


Và Charis kết tinh nơi Đức Kitô khiến cho bây giờ ta phải phân biệt, và đôi khi cãi nhau, khi nào dịch Eucharistia là lời nguyện Tạ Ơn, và khi nào dịch là Bí Tích Thánh Thể, là Mình Thánh Chúa, bởi căn của từ Eucharistia là từ "charis". Như vậy, Gratia có biết bao nhiêu sắc thái.


Nhưng "ga-la-ti-a" không phải là vấn đề với bà tôi. "Ga-la-ti-a" là một cái gì ở trong tâm linh cụ, và trong tâm linh thế hệ của cụ, và cả những thế hệ trước. Đó là những người không biết tiếng Do Thái, Hy Lạp, hay Latinh, không biết tiếng Pháp hay Tây Ban Nha, nhưng có biết những mầu nhiệm Đức Tin, mặc dù phải diễn tả qua những ngôn từ lạ lẫm của các thứ tiếng đó. Thời nào cũng có ơn soi sáng của Đức Chúa Phi-ri-tô xăng-tô.


Thời đó Hội Thánh được gọi là Thánh I-ghê-ri-sa ( theo tiếng Tây Ban Nha: Iglesia, hay Bồ Đào Nha: Igreja ). Trong Nhà Thờ, nơi người ta lên rước Mình Thánh Chúa thì gọi là gian Com-mô-nhong ( Communion ), Đức Giáo Hoàng là Đức Thánh Pha-pha ( Papa ), các vị Hồng Y là các đấng Các-đi-na-lê ( Cardinal ) và các Giám Mục là Vít-vồ ( Vescovo, tiếng Tây Ban Nha ). Người ta vừa tận tình với Đạo vừa nói với các ngôn ngữ Việt pha lẫn Latinh và Tây Ban Nha đó.


Nhưng song song với sự lai tạp ngôn ngữ đó, ở một phương diện khác, người ta lại cố gắng trau chuốt câu kinh lời nguyện. Một cách để tạo sự trang trọng là dùng chữ Hán, vì chữ Hán được coi là văn chương bác học, văn chương quý tộc. Vào một Nhà Thờ ngày xưa, giữa một cộng đoàn không phải là nhiều chữ nghĩa lắm, ta có thể bắt gặp những nông dân đang đọc kinh cầu Đức Mẹ: "Thần lạc chi duyên, vị thần đẳng cầu, Hoàng Kim chi điện... kết ước chi quỹ... Thượng thiên chi môn... Hiển minh chi tinh, vị thần đẳng cầu", v.v... Dân gian gọi đó là kinh cầu chữ, kinh cầu chữ tồn tại cùng với kinh cầu nôm, và cả kinh "chữ" lẫn "nôm" đều dịch ý kinh cầu Latinh.


Nhưng kinh Latinh và kinh chữ thì cô đọng, súc tích, còn kinh cầu nôm thì đằng thằng theo lối nghĩ, lối nói của người bình dân xưa.


"Thần lạc chi duyên" là "causa nostrae laetitiae", diễn nôm: "Đức Bà làm cho chúng tôi vui mừng".


"Hoàng kim chi điện": "domus aurea": "Đức Bà như Đền vàng vậy".


"Kết ước chi quỹ": "foederis arca": "Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy";


"Thượng thiên chi môn": "Janua caeli": "Đức Bà là Cửa Thiên Đầng".


"Hiển minh chi tinh": "stella matutina": "Đức Bà như sao mai sáng vậy".


Còn điệp khúc "vị thần đẳng cầu": "Ora pro nobis", đơn giản là: "cầu cho chúng tôi".


Người ta kể chuyện hồi nạn đói năm Ất Dậu, có một ông già Giáo Dân đi lượm xác những người chết đói để an táng. Ông đặt xác lên cái bè trên sông, ông dòng dây đi trên bờ kéo bè về huyệt, vừa đi vừa đọc kinh cầu hồn: "Phục dĩ chí Tôn, chân Chúa cửu trùng, cao ngự chi thiên"... Dân gian gọi đó là "kinh Phục rĩ", theo kiểu phát âm của Giáo Dân vùng đồng bằng ven biển Bắc bộ.


Có thể lúc bình thương, giới thanh niên chỉ thấy đấy là những lời rền rỉ. Nhưng hãy tưởng tượng tình thế bi đát của năm Ất Dậu ấy, ông già kéo xác ven bờ sông, cất lên giọng thê thiết: "Phục rĩ chí tôn..." sẽ thấy đấy là một cảnh tượng đủ tầm cỡ để nằm trong các bộ sử thi hay những cuốn phim nghệ thuật hoành tráng nhất. Đến đây thì không phải là dịch thuật nữa rồi, mà là sáng tạo của Lòng Tin. Dùng chữ Hán đã vậy, lời kinh thông thường vẫn là văn Nôm...


Nhưng lời kinh thông thường không phải bằng chữ Hán, mà là văn nôm. Xin được trích vài đoạn vãn dâng hoa trong tháng kính Đức Mẹ. Nghe nói vãn này có từ hậu bán thế ký XIX, lúc ấy chúng ta còn chúc tụng "Go-lo-ri-a Đức Chúa Phi-ri-tô xăng-tô" mà đã có những lời thơ cầu nguyện thật mượt mà:


Chúng tôi mọn mạy phàm hèn
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa
Rộng ban giãi tấm lòng thơ trước toà
Chúng tôi lạy Chúa Cha nhân thứ
Đã giữ lời phán hứa rủ thương
Dựng nên rất thánh Nữ Vương
Gây nên mối phúc nêu gương muôn đời.
Chúng tôi lạy Ngôi Hai xuống thế
Cứu loài người chẳng để cho hư
Lại thương trối Mẹ nhân từ
Để cho con mọn được nhờ mọi ơn
Chúng tôi lạy Thánh Thần Chúa cả
Cho Đức Bà phục lạ ơn đầy
Cùng lòng rộng rãi nhân thay
Để con mọn được ăn mày phận thương...


Đóa hoa khúm núm tay bưng
Tấc niềm cần bộc xin từng tỏ ra
Đền vàng quỳ trước dân hoa
Trông lên tháp bảo thấy tòa Ba Ngôi
Mười hai nhân đức gương soi
Kính dâng Đức Mẹ đời đời ngửa trông.


Những vần những điệu ấy cứ thế ngấm vào lòng người bình dân. Giữa cảnh hương hoa trang nghiêm và lời ca điệu nhạc, ghé mắt nhìn lên tòa Ba Ngôi tháp bảo và thấy mười hai nhân đức gương soi, có lẽ không khác lắm với tâm trạng chúng ta ngay nay, một ngày 15 tháng 8 ở La Vang chẳng hạn, lắng nghe lời sách Khải Huyền về người Phụ Nữ trên đầu có mười hai ngôi sao sáng. Dâng lên bảy hoa năm sắc để rồi nguyện một lời khiêm nhường mà thiết tha:


Chúng con đang chốn phong đào
Mong giao hạt giống e vào bụi gai
Cậy trộng Đức Mẹ nhân thay
Rủ thương vì chúc tụng này cùng hoa
Lòng thốn thảo, đóa linh pha
Xin đều dâng tiến trước tòa Ba Ngôi
Diện tiền cầu khẩn thay lời
Đầm đầm mưa móc trên trời tươi liên
Thêm ơn vun xới cách riêng
Ruộng thiêng sạch cỏ mọc lên giống lành
Hoa nhân ái phúc rủ ngành
Đời nay dùng đủ lại dành đời sau
Tác thành đã được giã tâu
Dám xin hợp ý khấu đầu tạ ơn...


Năm vừa rồi có dịp sang thăm nước Mỹ, tôi được dự cuộc gặp mặt của người đồng hương ở Silicon Valley, Bắc California: mấy cô cậu thiếu niên và những cô cậu bé mới sinh ở Mỹ châu đầu vào nhau chơi đùa, nói tiếng Mỹ rào rạo; nhưng mấy ông bà đứng tuổi thì họp nhau để đọc với nhau nhưng lời kinh đất lề quê thói:


Phép ngắm Rô-sa nguyên cội rễ
Suy ơn chuộc tội loài người thế
Tự sinh nhi tử, tư nhi sinh
Công nghiệp vô cùng khôn xiết kể...
Lạy ơn Đức Mẹ nhân thay
Xin vị sự nhiệm mầu này rủ thương
Cho con lòng vững đá vàng
Vâng theo Ý Chúa mọi đàng chẳng sai...


Thì ra một nửa vòng trái đất và Silicon Valley vẫn không xóa nhòa được cái bồi hồi gắn với mấy câu kinh quê hương, ở đấy có cái gì đã thành máu thịt và thành phần hồn của người ta.


Hôm nay tôi vừa đọc lời anh Lê Đình Bảng giới thiệu một công trình nghiên cứu của giáo viên sử học Lê Ngọc Bích về những người Công Giáo ngày xưa. Nhà thơ Lê Đình Bảng viết: "Suốt những năm tuổi mọn ở làng quê xứ đạo, bọn trẻ chúng tôi – với chút kiến thức tầm tầm góp nhặt dông dài được từ các môn học phổ thông trong trường lớp – chỉ có rặt một loại văn hóa phẩm. Đó là mớ kinh sách tuồng chuyện, thơ phú, vè vãn của nhà đạo...


Và có lẽ cũng phải kể tới bài học truyền khẩu là ca dao, tục ngữ, đồng dao, truyện Kiều, từ lời mẹ hát ru, từ những đêm trăng trong sáng ngày mùa. Cái vốn liếng chữ nghĩa ăn đong ấy, nói thật lòng, đã nuôi sống, đã thổi chúng tôi lớn lên, vào đời. So với lớp trẻ sau đó và bây giờ, nghĩ mà xấu hổ, vì chúng tôi thua kém đủ điều. Ấy thế mà đến nay, gần cuối vòng đời, vẫn thấy trong lòng mình vang âm cái cảm giác mê mẩn, phiêu linh của câu chữ thủa nào".


Anh Đình Bảng cho rằng những câu chữ ấy gắn liền với "Những còn người, những sự kiện, những trải nghiệm rất máu thịt, rất căn cơ... tai tôi nghe u trầm những cung bậc diệu kì pha lẫn khuất tất, trở trăn từ một cõi nào. Và cứ thế tôi mê mải bước đi, như kẻ xa quê lâu ngày, trở về, lặng lẽ cúi đầu trước cổng làng".


Nhắc lại những chuyện trên đây, tôi không có ý tiếc nuối muốn trở về thời xa xưa. Mỗi thời đều có ngôn ngữ của nó. Xin được nghĩ về chúng ta ngày nay...


Nhắc lại những chuyện trên đây, tôi không có ý tiếc nuối muốn trở về thời xa xưa. Mỗi thời đều có ngôn ngữ của nó. Đương nhiên ngôn ngữ của chúng ta ngày nay hiện đại hơn và ít nhiều cũng Tây hóa hơn so với cả cái mộc mạc lẫn cái duyên dáng của người xưa. Hơn nữa, ta được hưởng rất nhiều điều hay, được nghe giảng Thánh Kinh và Thần Học, được tiếp thu những thành quả của gần một thế kỷ Giáo Hội về nguồn và canh tân; ta lại có các hiến chế và văn kiện của Công Đồng Vatican II, v.v... Xét về nhiều mặt rõ ràng ta giỏi hơn người xưa. Chưa biết chừng nhìn lại quá khứ ta sẽ có chút cảm giác thương hại đối với một thời còn chậm phát triển về mặt Đạo...


Sau thời bà tôi khá lâu, tôi vẫn nhớ những ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nghĩ lễ tôn thờ Thánh Giá vẫn cử hành vào sáng sớm. Từ trên cung thánh vọng xuống những giai điệu rất hay và những lời ca Latinh tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa. Dưới lòng Nhà Thờ, các chị tôi lim dim ngủ gật, lời ca kia như một tiếng hát ru, như một tiếng sáo diều mùa hè. Các chị chỉ giật thót tỉnh thức khi ông Linh Mục người nước ngoài có giọng hát thật mạnh nên được đóng vai "quân dữ", lấy hết âm lượng để hô lên: "Baraba !" Lúc ấy Nhà Thờ đâu đã có micro và loa. Đó cũng là một dấu chỉ thời đại.


Vài năm sau, Đức Giáo Hoàng Piô XII cải tổ Phụng Vụ. Các nghi lễ Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy Tuần Thánh từ buổi sáng chuyển về buổi chiều cả. Lại thêm một bước tiến.


Tôi quen một Linh Mục nọ vốn theo dõi những cố gắng canh tân Phụng Vụ bên phương Tây: một hôm cha xoay ngược bàn thờ, làm lễ quay mặt xuống Giáo Dân. Đức Giám Mục đến thăm. Ngài dạy rằng đừng làm thế, người ta chưa quen. Cha vâng lời xoay bàn thờ lên. Năm sau Đức Giám Mục đi dự Công Đồng Vatican II về, ngài lại dạy: quay bàn thờ xuống. Cha lại vâng lời. Người ta hỏi sao cha cứ xoay bàn thờ hoài vậy, cha nhăn nhó cười: "Ôi ! Chóng mặt quá !"


Cũng sau một khóa họp Công Đồng, cộng đoàn Phụng Vụ bắt đầu được dự Thánh Lễ đồng tế. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, các Linh Mục cùng nhau cử hành nghi lễ tôn thờ Thánh Giá vẫn trong phẩm phục đen truyền thống. Tôi nghe một cha giáo già làu bàu: "Hôm nay là ngày phải mặc áo đỏ, chứ ai lại đen thế này." Quả nhiên năm sau phẩm phục ngày Thứ Sáu Thánh từ đen đổi sang đỏ.


Đêm vọng Phục Sinh, sau cải tổ Phụng Vụ, tôi mất đi một giây phút ấn tượng của thời trước: lễ nghi đang diễn tiến dài dòng, chợt có một điểm bừng sáng: phẩm phục của Linh Mục từ mầu tím đột nhiên đổi sang mầu trắng; những tấm màn tối màu âm u hạ xuống, hoa nến ở đâu xuất hiện tưng bừng, cả Nhà Thờ sáng rực lên. Bù lại, tôi có được những ấn tượng khác, rất sâu đậm: nghi lễ thắp nến Phục Sinh giữa đêm tối với lời tuyên xưng "Đức Kitô hôm qua và hôm nay khởi nguyên và khánh thành, an-pha và ô-mê-ga thời gian là của người, đời đời là của người"... Tôi lại được nghe, được hiểu bài tán tụng "Exultet" như đôi cánh tung bay, và lời ca Halêluia trở nên cực kỳ thấm thía.


Tôi còn phải nhắc tới những kinh nghiệm quý báu nơi những vùng việc Đạo đang gặp khó khăn: những nghi lễ Hôn Phối và An Táng đã gây ấn tượng như thế nào trong lòng các bạn bè chưa có Đức Tin, và đã trở nên một dịp loan báo Tin Mừng như thế nào.


Tôi chỉ gi lại trên đây cảm giác của một người tầm thường, chưa dám bàn đến những ý nghĩa sâu xa cần đến các giáo sư Phụng Vụ để làm sáng tỏ.


Nghĩ lại, so với thời bà tôi, tôi cũng đã đi được một chặng đường khá dài. Vậy thì ai lại lội ngược dòng tiến bộ ? Hãy hăng say leo lên đài tương lai. Chỉ có điều con đường đi lên cũng có những hiểm trở của nó. Phải chăng những tranh cãi về bản dịch Phụng Vụ mới cũng có cái gì phản ảnh những hiểm trở đó ?


Ngày xưa bà tôi "A-ve-Ma-ri-a, đầy ga-la-ti-a" quê tôi "Đền vàng quỳ trước dâng hoa" thì cũng chưa phải là lý tưởng, và chắc chắn cuộc sống hồi ấy cũng có những trái ngang của nó. Nhưng trong cõi nhân sinh ấy, hình như có một sự hòa hợp nào đấy: ý với tình, nội tâm với lời nói như nhần nhuyễn với nhau, dù cho tiếng Latinh với chữ Hán lẫn lộn nhau như thế không theo quy luật nào cả. Ai, và thời nào, dám tự cho rằng ý, tình, lời của mình đã đạt đến mức đồng cảm hoàn toàn với Đức Tin của Hội Thánh vốn là cõi cao sâu vô cùng ! Nhưng ít ra những ý ấy, tình ấy, lời ấy giống như những con suối nhỏ quanh co nhưng nhất mực chảy về sông cả biển khơi. Và như thế đó vẫn là những hợp âm quý giá trong bản giao hưởng Đức Tin của toàn Dân Chúa.


Chúng ta bây giờ cũng thế thôi. Cái trái ngang của chúng ta hôm nay hình như là ta đang phải vật lộn với một sự lỏng chỏng nào đó. Với tất cả những tiến bộ, kiến thức, tăng trưởng ta đã thủ đắc, ta đã lúng túng như chưa đạt được một tổng hợp nhần nhuyễn. Trong cố gắng diễn tả Đức Tin cho thật chuẩn xác, đôi khi ta có cảm tưởng như ý ở một đàng, tình ở một nẻo, và ngôn ngữ ta dùng trở nên đề tài tranh cãi gay go với nhau.


Ta hãnh diện vì Đại Lục Châu Á của ta là vùng đất của tâm linh, là nơi phát xuất của các tôn giáo lớn. Đạo Chúa Kitô cũng phát xuất từ Châu Á. Các giáo sư Thánh Kinh có giảng rằng Thánh Kinh có nhiều điểm, nhiều lối nói người phương Đông dễ hiểu, để thông cảm hơn người phương Tây. Dù sao, ta là người Đông Á, còn Thánh Kinh lại mang sắc thái Tây Á, thành ra cái giống nhau và cái khác nhau đan xen. Trong lịch sử, Đạo lại đi một vòng dài qua phương Tây rồi mới sang Á Đông. Bao nhiêu giai đoạn là bấy nhiêu tầng ngôn ngữ và văn hóa. Là một Đức Tin phổ quát mà biết bao nhiêu bộ mặt biến hóa.


Với cái di sản vô giá và đồ sộ ấy, khi ta cố gắng nói lên Đức Tin tinh tuyền, thì thường có một hơi hướng Tây Tây thế nào đó. Cái ngữ văn, ngữ điệu ấy, hình như chưa đích thực là ta hoàn toàn. Ta có phần nào giống như cô gái quê của Nguyễn Bính:


"Hôm qua em lên tỉnh về
Hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều".


Dĩ nhiên, không thể dựa vào cái cảm giác "lỏng chỏng" để đối lập thời ta với thời "đầy ga-la-ti-a" và "Đền vàng quỳ trước dâng hoa" coi như thời xưa là một tổng hợp hoàn hảo, còn thời nay là một sự bát nháo. Làm sao có thể quên rằng trong lịch sử truyền giáo ở Trung Quốc cũng như ở ta, đã có những có cuộc tranh cãi kịch liệt về từ ngữ và về đường lối mục vụ giữa các Thừa Sai với nhau. Những công thức kinh kệ cũng là những gì chắt lọc được từ những tranh cãi sôi nổi ấy.


Cuộc sống là một chuỗi những diễn biến biện chứng với những khía cạnh mâu thuẫn rốt cuộc rồi cũng đạt được một tổng hợp quân bình nào đó trong một thời gian, trước khi những thúc bách tiến bước tạo ra những mâu thuẫn mới để lại rồi cần thời gian mới để tìm ra một tổng hợp quân bình mới. Biết đâu khi bà tôi bình an với "Ma-ri-a đầy ga-la-ti-a" vì được "Chúa Dêu ở cùng" là một thời gian quân bình như thế, và những tranh cãi của chúng ta bây giờ là một giai đoạn mâu thuẫn để đi tìm một quân bình mới ?


Sau khi xuất hiện nhiều ý kiến nặng nhẹ về bản dịch Phụng Vụ mới, thấy có một vài bài giải thích về chủ ý cũng như cách làm việc của Ủy Ban Phụng Tự. Theo những người thông thạo tin tức cho biết thì ý các Đấng hữu trách là sau những giải thích ấy sẽ không trả lời ai nữa. Tôi trộm hiểu rằng các Đấng đã giải thích rồi có nghĩa là việc đã quyết định, không nói tới nói lui gì nữa, cứ thế thi hành thôi. Còn không trả lời ai nữa thì có nghĩa là các vấn đề nêu lên vẫn còn nguyên trạng đấy. Và như thế ta gặp lại cái tương quan biện chứng giữa sự dừng bước và sự tiến bước. Tiến là để tìm tới một điểm dừng, và dừng là để lộ ra những bức xúc khiến cho phải tiến nữa. Nói theo kiểu Thánh Kinh, có một thời để dừng và một thời để tiến...


Những trăn trở chung quanh một bản dịch xét cho cùng cũng nói lên cái ước ao được hòa hợp giữa ý với tình. Cả ý lẫn tình vốn không đứng yên một chỗ, vẫn tiến hóa mà lại phải hòa quyện với nhau; không thế thì con người như bị xẻ chia rất tội nghiệp. Từ thời ca vãn dâng hoa đến nay, ý với tình đều đã trôi nổi, đã kinh qua lắm đoạn nhiều đường; người ngày nay cũng có nhu cầu nói được những tình ý của mình. Một khi đã đón nhận Đức Tin, đã được Đức Tin cảm hóa, thì Tin sinh ra Tình.


Khi nói Đức Tin, nhất là khi cầu nguyện, khi cử hành Phụng Vụ, mà phần tâm, phần tình lại bị dồn nén, ức chế, thì ng ta có cảm tưởng như đang ăn, đang nói mà trong miệng lại cứ trệu trạo sỏi sạn. ý với tình hòa quyện được với nhau sẽ tạo ra vẻ đẹp, và Phụng Vụ là lời cầu nguyện chính thống của Hội Thánh, không thể không đẹp, không thể trái thẩm mỹ.


Ở Châu Âu hiện nay nhiều vị hữu trách về mục vụ cho rằng nét đẹp, ấn tượng thẩm mỹ chính là nhân tố đánh thức Lòng Tin nơi người đương thời. Ai cũng biết Châu Âu, đặc biệt là Tây Âu đang trải qua một cuộc khủng hoảng tâm linh, một giai đoạn khó khăn về tôn giáo. Nhà Thờ vắng người, xã hội sống lập pháp, vui chơi, hưởng thụ mà chẳng cần biết Đức Tin dạy gì, Giáo Hội nghĩ sao; tệ hơn nữa, có khi Đạo và Giáo Hội còn bị cái xã hội loạn xà ngầu ấy gán cho là lạc hậu, là phản tiến hóa, là đầu mối của lắm nỗi oan khiên. Trong một xã hội như thế, mà vẻ đẹp của Kinh Nguyện và Phụng Vụ lại có tác động thức tỉnh Lòng Tin, thì đủ thấy cái đẹp ấy không phải chỉ là mầu mè bề ngoài, nhưng nó gắn liền với cõi thâm tâm, nó là sự sống thăng hoa.


Việt Nam ta nhờ ơn Chúa thương vẫn còn là một lối sinh hoạt Đạo có tính đại chúng, chắc chắn sinh ơn huệ cho rất nhiều tâm hồn. Nhưng có thể lo âu tự hỏi phải chăng cái tính đại chúng ấy có lúc lấn át, đánh giá thấp, hay là vô tâm đối với lãnh vực thẩm mỹ ? Chẳng lẽ phải đợi đến khi khủng hoảng như bên Tây rồi mới đi tìm cái đẹp ?


Nhớ lại những lần ngồi nghe cha giáo Micae Nguyễn Hữu Phú giảng về Phụng Vụ. Cha say sưa đọc liên tiếp mấy chục kinh Phụng Vụ Tạ Ơn của Giáo Phụ ngày xưa, hết vị này đến vị khác. Lũ học trò ngơ ngác hỏi thầm nhau: "Sao cha đọc nhiều thế !" Về sau, quen với lối suy nghiệm và những phút bốc lửa của cha, lũ học trò mới ngộ ra rằng đối với cha, mỗi câu, mỗi chữ trong những Kinh Nguyện Tạ Ơn ấy đều nặng trĩu những mầu mỡ của Lòng Tin, đều nặng trĩu hồng ân, nặng trĩu linh hồn. Cha đã đi vào hiệp thông với những Giáo Phụ thời cổ, chia sẻ với các ngài những vầng trời cao sáng vời vợi vô biên.


Ngược dòng thời gian mà tìm thấy kho báu đó thì lại muốn đưa về chia sẻ với đồng đạo ngày nay. Linh Mục nho sĩ Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, một người đã trả giá đắt để tìm thấy chất men Tin Mừng trong một chuyến bay trên bầu trời Đông Á để đi phó hội quốc tế, đã tức cảnh sinh tình viết bài thơ:


"Thái Bình Dương thượng, Thái Bình Thiên
Viễn thuỷ trường không, nhất sắc tiên...
...
Không gian đảo dữ thời gian chuyển,
Kinh tuyến thiên đồng, vĩ tuyến thuyên..."


Tôi xin mạn phép hiểu chệch ý kiến tác giả một chút, vì lời thơ quá sắc nét. Ngày xưa các Giáo Phụ chung quanh vùng phía đông Địa Trung Hải cầm bánh rượu ngước mắt lên trời mà thấy Đức Tin dậy men trong lòng mình bật ra lời kinh tạ ơn. Làm thế nào để chất men ấy cũng dậy lên trong lòng những người Việt trên bờ Thái Bình dương khi ngước mắt nhìn lên "Thái Bình Thiên". Xứ sở này là một cõi "viễn thuỷ trường không" so với ngôn ngữ các Giáo Phụ. Cả "không gian và thời gian, kinh tuyến và vĩ tuyến" đều đã đổi thay, vậy mà vẫn là một Đức Tin duy nhất, như cha Thích viết trong câu kết:


"Phùng nghinh quốc tế hữu kỳ duyên".


Một lần tôi đưa ông bạn, người một nước ven bờ Địa Trung Hải đi dọc một quốc lộ Việt Nam. Sáng sớm Chúa Nhật, cứ vài khúc lại gặp một đoàn người cùng nhau bước đi bên đường. Thế là biết đâu đó có một Xứ Đạo, một Nhà Thờ, và Dân Chúa đi dự Thánh Lễ hoặc dự Thánh Lễ về, cứ vài khúc đường lại gặp những cây cầu, những dòng sông cuồn cuộn, những ruộng, những đồng. Và anh bạn Địa Trung Hải kêu: "Que d'eau ! Que d'eau !" – xứ sở này chứa chan nguồn nước. Tôi hiểu rằng vùng ven Địa Trung Hải của anh khô khan hơn, cỏ cây và con người khác ở đây.


Và tôi thầm ước niềm tin chung của chúng tôi vào Chúa Kitô hy sinh thân mình vì con người và đổ máu mình để lập giao ước mới, khi nẩy nở ở đây cũng hòa vào tâm hồn của những con người được nhào nặn bên ruộng lúa hay trên sông nước, bên lũy tre bụi chuối, bên những rừng tràm rừng đước, và những tán rừng nhiệt đới, và với một lịch sử như ta đã biết....


Lm. VŨ KHỞI PHỤNG, DCCT
Hà Nội - Sàigòn 29.7.2006